Skip Ribbon Commands
Skip to main content

Kiên quyết đấu tranh, loại bỏ quan điểm sai trái về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Thông tin tuyên truyền, phổ biến  
Kiên quyết đấu tranh, loại bỏ quan điểm sai trái về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là vấn đề lý luận và thực tiễn rất cơ bản, không chỉ liên quan đến nhận thức, ý chí cách mạng, đường lối, chính sách, mà còn liên quan đến lý tưởng, mục tiêu và phương hướng phát triển của đất nước ta. Lựa chọn mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta không thể là việc làm tùy tiện, cảm hứng chủ quan, mà đây thực sự là vấn đề khoa học nghiêm túc, là trách nhiệm thiêng liêng trước vận mệnh và tương lai của đất nước, của dân tộc.
16.jpg
Ảnh minh họa (Ảnh tư liệu) 

Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là vấn đề lý luận và thực tiễn rất cơ bản, không chỉ liên quan đến nhận thức, ý chí cách mạng, đường lối, chính sách, mà còn liên quan đến lý tưởng, mục tiêu và phương hướng phát triển của đất nước ta. Lựa chọn mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta không thể là việc làm tùy tiện, cảm hứng chủ quan, mà đây thực sự là vấn đề khoa học nghiêm túc, là trách nhiệm thiêng liêng trước vận mệnh và tương lai của đất nước, của dân tộc.

Con đường xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn đúng đắn của Hồ Chí Minh và Nhân dân ta

Thực tiễn lịch sử tồn tại của chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học-công nghệ. Nhiều nước tư bản phát triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và do kết quả đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đã có những biện pháp điều chỉnh, hình thành được không ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước. Từ giữa thập kỷ 70 và nhất là từ sau khi Liên Xô tan rã, để thích ứng với điều kiện mới, chủ nghĩa tư bản thế giới đã ra sức tự điều chỉnh, thúc đẩy các chính sách "tự do mới" trên quy mô toàn cầu; và nhờ đó hiện vẫn còn tiềm năng phát triển. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó. Các cuộc khủng hoảng vẫn tiếp tục diễn ra. Đặc biệt là, năm 2008-2009 chúng ta đã chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế bắt đầu từ nước Mỹ, nhanh chóng lan rộng ra các trung tâm tư bản chủ nghĩa khác và tác động đến hầu hết các nước trên thế giới. Các nhà nước, các chính phủ tư sản ở Phương Tây đã bơm những lượng tiền khổng lồ để cứu các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia, các tổ hợp công nghiệp, tài chính, ngân hàng, thị trường chứng khoán, nhưng không mấy thành công. Và hôm nay, chúng ta lại chứng kiến cuộc khủng hoảng nhiều mặt, cả về y tế, xã hội lẫn chính trị, kinh tế đang diễn ra dưới tác động của đại dịch COVID-19 và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Kinh tế suy thoái đã làm phơi bày sự thật của những bất công xã hội trong các xã hội tư bản chủ nghĩa: đời sống của đa số dân cư lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu - nghèo ngày càng lớn, làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn, xung đột giữa các sắc tộc. Những tình huống "phát triển xấu", những nghịch lý "phản phát triển", từ địa hạt kinh tế - tài chính đã tràn sang lĩnh vực xã hội, làm bùng nổ các xung đột xã hội, và ở không ít nơi từ tình huống kinh tế đã trở thành tình huống chính trị với các làn sóng biểu tình, bãi công, làm rung chuyển cả thể chế. Sự thật cho thấy, bản thân thị trường tự do của chủ nghĩa tư bản không thể giúp giải quyết được những khó khăn, và trong nhiều trường hợp còn gây ra những tổn hại nghiêm trọng cho các nước nghèo; làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa lao động và tư bản toàn cầu. Sự thật đó cũng làm phá sản những lý thuyết kinh tế hay mô hình phát triển vốn xưa nay được coi là thời thượng, được không ít các chính khách tư sản ca ngợi, được các chuyên gia của họ coi là tối ưu, hợp lý.

Cùng với khủng hoảng kinh tế - tài chính là khủng hoảng năng lượng, lương thực, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường sinh thái,... đang đặt ra những thách thức vô cùng lớn cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại. Đó là hậu quả của một quá trình phát triển kinh tế - xã hội lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội. Đó cũng chính là những đặc trưng cốt yếu của phương thức sản xuất và tiêu dùng tư bản chủ nghĩa. Các cuộc khủng hoảng đang diễn ra một lần nữa chứng minh tính không bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái của nó. Theo nhiều nhà khoa học phân tích, các cuộc khủng hoảng hiện nay không thể giải quyết được một cách triệt để trong khuôn khổ của chế độ tư bản chủ nghĩa.

Các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian qua càng làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất của các thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa. Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức "dân chủ tự do" mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân - yếu tố bản chất nhất của dân chủ. Hệ thống quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn. Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội. Đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến phong trào "99 chống lại 1" diễn ra ở Mỹ đầu năm 2011 và nhanh chóng lan rộng ở nhiều nước tư bản. Sự rêu rao bình đẳng về quyền nhưng không kèm theo sự bình đẳng về điều kiện để thực hiện các quyền đó đã dẫn đến dân chủ vẫn chỉ là hình thức, trống rỗng mà không thực chất. Trong đời sống chính trị, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn át. Vì vậy mà tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là "tự do", "dân chủ" dù có thể thay đổi chính phủ nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản.

Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, "cá lớn nuốt cá bé" vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi.

Trước đây, khi còn Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế giới thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dường như không có gì phải bàn, nó mặc nhiên coi như đã được khẳng định. Nhưng từ sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt. Các thế lực chống cộng, cơ hội chính trị thì hí hửng, vui mừng, thừa cơ dấn tới để xuyên tạc, chống phá. Trong hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa xã hội, quy kết nguyên nhân tan rã của Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là do sai lầm của chủ nghĩa Mác-Lênin và sự lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ đó họ cho rằng chúng ta đã chọn đường sai, cần phải đi con đường khác. Có người còn phụ họa với các luận điệu thù địch, công kích, bài bác chủ nghĩa xã hội, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản. Thậm chí có người còn sám hối về một thời đã tin theo chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường xã hội chủ nghĩa! Thực tế có phải như vậy không? Thực tế có phải hiện nay chủ nghĩa tư bản, kể cả những nước tư bản chủ nghĩa già đời vẫn đang phát triển tốt đẹp không? Có phải Việt Nam chúng ta đã chọn con đường đi sai không?

Có kẻ cho rằng, con đường xã hội chủ nghĩa mà Hồ Chí Minh đã chọn là con đường tốn xương máu cho cả dân tộc, nếu đi con đường khác thì đã có thể tránh được mấy cuộc chiến tranh tàn khốc! Có kẻ rêu rao rằng, Hồ Chí Minh đem chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam quá sớm và đó là nguồn gốc chậm tiến, lạc hậu của Việt Nam, nếu không thì Việt Nam đã là nước giàu mạnh! Không ít kẻ xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, đòi Đảng ta xem xét lại con đường xã hội chủ nghĩa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và dân tộc ta đã lựa chọn và kiên trì, thậm chí còn đòi bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã ghi trong điều 4 Hiến pháp... Thực chất của những luận điệu trên là muốn Đảng ta và dân tộc ta từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa, đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Bằng thực tiễn những năm bôn ba tìm đườn cứu nước, đến với chủ nghĩa xã hội khoa học và quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam của lãnh tụ Hồ Chí Minh và bằng thực tiễn sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam hơn 90 năm qua đối với cách mạng Việt Nam, chúng ta có đủ căn cứ khoa học để bác bỏ những luận điệu sai trái nêu trên; đồng thời củng cố niềm tin vững chắc vào con đường xã hội chủ nghĩa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn.

Như mọi người đều biết, quá trình đến với chủ nghĩa xã hội khoa học và quá trình vận động thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là quá trình chọn lựa để xác lập quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và con đường cứu nước đi theo xã hội chủ nghĩa. Quá trình đó gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sinh ra và lớn lên ở đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, dân tộc bị chìm đắm trong vòng nô lệ, từ thuở thiếu thời, Hồ Chí Minh đã trực tiếp thấy sự áp bức, bóc lột tàn bạo của thực dân, đế quốc, đã sớm “có chí đuổi thực dân, giải phóng đồng bào". Người quyết định đi tìm con đường cứu nước theo phương hướng mới. Đây là quyết định sáng suốt, thể hiện tư duy sắc bén và đầy trách nhiệm trước vận mệnh và tương lai của dân tộc Việt Nam.

Trong gần mười năm (1911-1920) bôn ba khắp các châu lục, Hồ Chí Minh thấy rõ sự thống trị vô nhân đạo của chủ nghĩa thực dân, đế quốc và cuộc sống cực khổ, lầm than của những người lao động thuộc mọi màu da. Thắng lợi của Cách mạng Tháng mười Nga năm 1917, việc thành lập Quốc tế Cộng sản năm 1919 và đặc biệt là Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin có ảnh hưởng quan trọng đến tư tưởng và hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. Bởi Luận cương đã giải quyết trọn vẹn vấn đề mà Người đặc biệt quan tâm, đó là cách mạng thuộc địa được đặt trong quỹ đạo của cách mạng xã hội chủ nghĩa, chứ không phải trong quỹ đạo của cách mang tư sản. Tiếp thu Luận cương, Người khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ" (1). Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cách mạng đúng đắn giành độc lập cho dân tộc Việt Nam, tiếp nối vĩ đại sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam trên cơ sở sức mạnh mới, sức mạnh của thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội được mở ra từ Cách mạng Tháng Mười. Về khách quan, đó là phản ánh xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Về chủ quan, đó là phát hiện khoa học của Hồ Chí Minh. Thiên tài của Người là trong bối cảnh chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân thống trị toàn cầu, chủ nghĩa xã hội còn xa lạ với nhiều dân tộc trên thế giới và cách mạng Việt Nam ở trong “tình hình đen tối như không có đường ra" thì Hồ Chí Minh đã nhận thức được chân lý đó. Tìm ra con đường cứu nước theo phương hướng xã hội chủ nghĩa là công lao vĩ đại đầu tiên của Hồ Chí Minh. Kể từ đây, Người thực hiện một quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học về Việt Nam, tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam để lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam.

15.jpg
Ảnh minh họa (Ảnh tư liệu) 

Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh cách mạng đầu tiên đúng đắn do Hồ Chí Minh soạn thảo đã kết thúc thời kỳ khủng hoảng về đường lối cứu nước của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chỉ rõ: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản" (2). Đó là chủ trương cách mạng triệt để, là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và quan điểm độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của Việt Nam. Cách mạng Việt Nam từ đây có người lãnh đạo đúng đắn là Đảng Cộng sản Việt Nam, được vũ trang bằng học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Quá trình lựa chọn, xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam là quá trình đấu tranh gian khổ. Bản thân phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam phải trải cuộc đấu tranh trong nội bộ chống lại tư tưởng, tâm lý tiểu tư sản, tự do, tản mạn, đồng thời phải đấu tranh quyết liệt với kẻ thù xâm lược. Nhiều chiến sĩ cộng sản và những người yêu nước đã phải vào tù ra tội, phải rơi đầu trên máy chém, nhưng vẫn tin tưởng vững chắc vào mục tiêu, lý tưởng và con đường xã hội chủ nghĩa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.       

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường đúng đắn, đúng quy luật tiến hóa của lịch sử nhân loại, là sự lựa chọn sáng suốt có ý nghĩa thời đại, thể hiện trí tuệ anh minh chính trị sáng suốt, tình cảm giai cấp và dân tộc tuyệt vời của Hồ Chí Minh. Mục tiêu xã hội chủ nghĩa được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức và vận dụng trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể với những nhiệm vụ, bước đi và phương pháp phù hợp nên giành được những thắng lợi vẻ vang, đánh thắng hai đế quốc to b  là Pháp và Mỹ, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh.       

Đảng và Nhân dân kiên định con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam    

13.jpg

Ảnh minh họa (Ảnh tư liệu) 

Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam. Ngay trong Chánh cương vắn tắt do Hồ Chí Minh soạn thảo được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng đã nêu: "Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Chính cương Đảng Lao động Việt Nam được thông qua tại Đại hội lần thứ II của Đảng tháng 2-1951 cũng nêu: "Cách mạng Việt Nam hiện nay là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội". Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) kết luận: "Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã là bài học xuyên suốt cách mạng nước ta". Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) một lần nữa khẳng định: "Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử". Nêu lại những điểm trên đây để khẳng định tính đúng đắn, nhất quán và sự kiên định của Đảng và dân tộc ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, bởi đây là sự lựa chọn của chính lịch sử, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam, ngoài ra không có con đường nào khác.

Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, năm 1991, Đảng ta dề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ năm 1991 đến nay, tình hình thế giới và trong nước đã có những biến đổi to lớn và sâu sắc. Nhiều vấn đề mới nảy sinh, nhiều nội dung liên quan được Đảng ta nhận thức sâu sắc và giải quyết có hiệu quả, trong đó có nhận thức về xu thế phát triển của lịch sử và tính đúng đắn của việc lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được phản ánh trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Trong đó, Cương lĩnh khẳng định: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội" (3).

Trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và từ thực tiễn công cuộc đổi mới vừa qua, Đảng ta nhận thức rõ hơn việc xác định đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vì đây là định hướng để Đảng và Nhà nước ta hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách nhằm hiện thực hóa mục tiêu chủ nghĩa xã hội trên đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta. Trong Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta xác định tám đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, đó là: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới" (4). Tám đặc trưng trên là kết quả của đổi mới nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn Việt Nam, là thành quả kết hợp hài hòa giữa "cái phổ biến" và "cái đặc thù", thể hiện tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng, mang sắc thái riêng của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam và sẽ được từng bước hiện thực hóa trong cuộc sống. Sự chuyển biến của tình hình quốc tế và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong thời gian tới sẽ cung cấp thêm những căn cứ để Đảng ta bổ sung những nhận thức mới về mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

14.jpg

Ảnh minh họa (Ảnh tư liệu) 

Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội; từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây như: đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ, không thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản...

 

Cho đến nay, mặc dù vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhưng chúng ta đã hình thành nhận thức tổng quát: Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang phấn đấu xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.

Trong quá trình thực hiện các định hướng nêu trên, “chúng ta cần tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn: Giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ" (5), đặc biệt là mối quan hệ mới được Đai hội lần thứ XIII của Đảng bổ sung là mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Đó là những mối quan hệ lớn, phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới của Đảng ta, cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện và phát triển phù hợp với thay đổi của thực tiễn; đòi hỏi Đảng và nhân dân ta phải nhận thức đúng và đầy đủ, quán triệt sâu sắc và thực hiện tốt, có hiệu quả, tuyệt đối không được cực đoan, phiến diện.

Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta là người lãnh đạo công cuộc đổi mới, sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, chính là làm cho mục tiêu này thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội với những hình thức, bước đi và biện pháp phù hợp, tiếp tục phát huy những thành quả đã đạt được, sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm nhằm đạt những thành tựu to lớn và vững chắc hơn trong việc thực hiện những mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp mà Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) và Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra. Đặc biệt là hết sức tránh nôn nóng, phiến diện, cực đoan, duy ý chí.

Thực tiễn cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hơn 90 năm qua là quá trình thực hiện và hoàn thiện dần mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và dân tộc đã lựa chọn. Một lần nữa chúng ta khẳng định: đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sự lựa chọn đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng ta và nhân dân ta. Đó là tuyên ngôn chính trị mang tầm chiến lược phát triển của đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; là mục tiêu, lý tưởng và tình cảm của Đảng và dân tộc ta; là nền tảng lý luận, chính trị, tư tưởng, định hướng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị nước ta hiện nay cũng như trong tương lai; đồng thời phải đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, phản động, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Vì thế, phải làm cho nhân dân ta tin tưởng vững chắc vào con đường xã hội chủ nghĩa, vào một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc; đồng thời phải tích cực đấu tranh và phản bác những quan điểm sai trái, phản động, xuyên tạc về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO          

        1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.12, tr.563.

        2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.1.           

        3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.69.

        4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.70.

        5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, t.I, tr.39.

        6. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam – TBT. Nguyễn Phú Trọng

        7. Kiên quyết đấu tranh chống quan điểm sai trái về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - PGS TS Lê Văn Yên