Skip Ribbon Commands
Skip to main content

Đền Lăng- di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia,niềm tự hào vùng đất Thanh Liêm

Giới thiệu chung Lịch sử, truyền thống văn hóa  
Đền Lăng- di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia,niềm tự hào vùng đất Thanh Liêm
Theo  tư liệu còn lưu tại di tích. Đền Lăng nằm trên khu đất cao, rộng ở phía chân núi Lăng. Thuộc địa bàn thôn Cõi , nay là thôn Ngũ Cõi xã Liêm Cần huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nam.  Xưa thôn còn có  tên là Bảo Thái. Thời Nhà Nguyễn gọi là Ninh Thái. Vì vậy Đền Lăng còn có tên gọi khác là đền Ninh Thái ( Ninh Thái Linh Từ) .



 Xã Liêm Cần vốn là mảnh đất cổ của tỉnh Hà Nam với địa thế đồi núi thấp nổi giữa đồng bằng, với con sông Khương Kiều uốn lượn nối sông Châu, sông Đáy rất luận lợi giao thông đường thủy lại tiện lợi cho việc quân nên nhiều vị tướng tài của các triều đại đã chọn  Liêm Cần  làm cơ sở tụ nghĩa luyện quân cứu nước. Chính từ địa linh này Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn cũng như các tướng thời Đinh –Lê  đã dùng làm cơ sở tổ chức luyện binh chống thù trong giặc ngoài. Theo Ngọc phả, truyền thuyết địa phương cùng nội dung khắc trên bài vị thờ tại chính tẩm thì  vị  vua thứ nhất được tờ ở đây là Đinh Tiên Hoàng đế, có công dẹp loạn 12 xứ quân thống nhất đất nước lập ra triều đại phong kiến chính thống  ở Việt Nam vào thế kỷ thứ X. Đinh Bộ Lĩnh đã cùng Đinh Điền, Đinh Bang về đây lập căn cứ tuyển quân  vừa là nơi huấn luyện binh sĩ, là vị trí tiền đồn cho quân doanh ở Hoa Lư Ninh Bình. Chỗ  vua Đinh đóng quân chính là điểm mà sau này nhân dân lập sinh từ, rồi  đền thờ vua Đinh ở trên đỉnh núi Lăng thiết lập năm 972, là nơi thờ vua Đinh Tiên Hoàng. Giữa thân núi là sinh từ, thời Lê Hoàn làm Thập đạo Tướng quân, vinh quy bái tổ về đây xây dựng năm 971, sau trở thành từ đường nhà Tiền Lê, nhân dân địa phương gọi là đền Trung.Trải qua nhiều biến thiên của lịch sử, đền Thượng, đền Trung  nay chỉ còn dấu tích. Hiện chỉ còn đền Hạ, dưới chân núi Lăng, còn gọi là đền Lăng được công nhận Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp quốc gia vào năm 1999. Đền Lăng, cung trong thờ tứ vị Hoàng đế (đó là: Vua Đinh Tiên Hoàng, vua Lê Đại Hành, vua Lê Trung Tôn và vua Lê Ngọa Triều), cung ngoài thờ tam vị Đại vương (đó là: Tướng Nguyễn Minh, Phó thập đạo Tướng quân cùng với Lê Hoàn phò nhà Đinh dẹp loạn 12 sứ quân; bà Nhữ Hoàng đế với sắc phong “Gia tặng quốc sắc thiên tài chung đẳng thần"; thần Thiên Cương đã báo mộng cho ông Nguyễn Minh, ở thôn Vực đi phù nhà Đinh trừ loạn nước cùng Lê Hoàn).Đền Lăng được nhân dân tôn lập thời hậu Lê, đầu Nguyễn theo truyền chỉ trước đây của vua Lý Thái Tổ (nhà Lý lên ngôi, khi dời đô ra Thăng Long đã ban chiếu cho Bảo Thái phụng sự lập đền để thờ tứ vị Hoàng đế. Các triều đại kế tiếp đều y lệ cũ ban sắc và xuân thu nhị kỳ tổ chức quốc tế). Dưới thời Pháp thuộc, đền Lăng là di tích sớm được nhà nước chú ý. Ngày 16/5/1925, toàn quyền Đông Dương ra thông báo liệt hạng là di tích được bảo vệ.Đền Lăng cũng là địa điểm được nhân dân lựa chọn tập hợp tuyên truyền cách mạng, du kích địa phương luyện tập  các hoạt động chống địch nhảy dù trên đường 21, ngăn chặn bước tiến của địch góp phần bảo vệ thành quả cách mạng.

 Về lễ hội, theo truyền thuyết và ngọc phả thì hàng năm đền Lăng có 4 kỳ lễ chính (người dân còn gọi là ngày Đại Kỳ phúc), gồm mùng 10 tháng Giêng là ngày sinh của Lê Hoàn và ngày sinh của Nguyễn Minh được tổ chức lớn hơn cả.  Các ngày 15/2, 8/3, 15/8 và 21/11 tính theo lịch âm (đây là những ngày liên quan đến ngày sinh, ngày hóa của các vị được tôn thờ trong đền). Theo các cụ kể lại, trước kia, vào những ngày Đại Kỳ phúc, dân làng mổ trâu, mổ lợn, làm lễ to lắm. Ngoài phần lễ trọng, làng còn mời các gánh hát chèo, tổ chức các trò chơi dân gian... hết sức vui tươi, phấn khởi.Ngày nay, thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội, vào những ngày Đại Kỳ phúc, Ban quản lý di tích tổ chức dâng hương, tế lễ. Văn tế ca ngợi công ơn to lớn của các vị vua, vị tướng với dân, với nước; đồng thời cầu quốc thái dân an, mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt, làng xóm bình yên.

Theo lời các cụ kể lại, trước kia, khi đi qua con đường trước cửa đền Lăng, người làm quan thì phải xuống ngựa dắt qua, người dân thì ngả mũ nón ... để tỏ lòng thành kính với tứ vị Hoàng đế, tam vị Đại vương. Phát huy truyền thống của cha ông, người dân Liêm Cần hôm nay luôn giáo dục các thế hệ con cháu ghi nhớ công lao to lớn của các vị tiền nhân trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc; từ đó vận động mọi người chung tay, chung sức bảo vệ, gìn giữ di tích quý trên mảnh đất quê hương. Được biết, vào dịp lễ, Tết, người dân tới đền Lăng lễ rất đông. Đặc biệt, vào đêm 30 Tết hằng năm, nhiều người ở lại đón giao thừa tại đền sau đó mới về nhà xông đất để lấy lộc Vua.

Ngoài đền Lăng, trên đất Bảo Thái xưa, Liêm Cần nay hiện còn khu mộ cụ Lê Lộc, ông nội vua Lê Hoàn được xây dựng bề thế, uy nghiêm. Theo tương truyền, vào cuối thế kỷ thứ X, ở quê hương Trường An Thượng có ông bà Lê Lộc đến xã Bảo Thái làm nghề kéo lưới, đơm lờ, đó bắt cá sinh sống. Cụ lập ngôi nhà tranh ở đầu núi Bảo Cái sinh cơ lập nghiệp lâu dài... Thường ngày có một con hổ hay qua lại, cụ nuôi hổ, cho làm “con nuôi", đặt tên là Sơn Trưởng, giao nhiệm vụ trông coi lờ đó ... Một hôm vào giờ tý canh ba cụ Lê Lộc đi thăm lờ đó thấy bờ vỡ, cụ xuống be lại. Sơn Trưởng nhầm tưởng là người đổ trộm đó bất ngờ tát cụ Lê Lộc chết. Sau biết là bố nuôi, hổ cõng cụ vào núi an táng. Sau này nhân dân thường gọi mộ cụ Lê Lộc là mả giấu, hay mộ hổ táng. Con trai cụ Lê Lộc trông nom phần mộ 3 năm rồi lấy bà Đặng Thị, sinh ra Lê Hoàn, sau này làm tướng, rồi lên ngôi vua.Hiện khu mả giấu nơi hổ táng cụ Lê Lộc, ông nội vua Lê Đại Hành nằm ở vị trí hàm rồng, hai bên là núi Lăng và núi Bông. Sau mộ là núi Bảo Cái (thân con rồng). Theo lưu truyền, mộ cụ Lê Lộc đặt vào vị trí đất phát đế vương, vì vậy đất Bảo Thái được xem là quê hương "Tiền Lê phát tích". Hiện nay trong đền Lăng vẫn còn vì kèo chạm khắc ông hổ để đó nhắc mọi người khi tới lễ, tới tham quan nhớ về tích xưa … 

Đền lăng  là công trình kiến trúc được xây dựng trong khung cảnh thiên nhiên sơn thủy hữu tình, công trình kiến trúc hài hòa.  Công trình hiện còn lưu giũ nhiều giá trị kiến trúc các đề tài điêu khắc trên cấu kiện, trên cửa võng ở các cung, trên đồ thờ tự mang đậm nét dân gian tinh tế quý hiếm. Cũng là công trình tín ngưỡng mà nhân dân tạo dựng để ghi dấu công ơn hai  vị vua  có công với đất nước. Trong những sự kiện trọng đại của xã Liêm Cần và huyện Thanh Liêm như lễ giao nhận quân, đại hội thể dục thể thao…ban tổ chức các buổi lễ thường chọn rước ngọn lửa  từ ngôi đền thiêng này về thắp lên ngọn lửa truyền thống của buổi lễ ngụ ý muốn truyền đi thông điệp truyền thống yêu nước, khí phách hào hùng dân tộc sẽ luôn được thắp lên và lan tỏa trong nhân dân, khích lệ động viên tất cả mọi người.  Việc suy trì  và phát huy giá trị của di tích để giáo dục con cháu muôn đời sau là việc làm cần thiết và cũng tạo cảnh quan kiến trúc đẹp mang tính tâm linh phục vụ nhân dân và du khách thập phương về thăm quan chiêm bái hiểu thêm về mảnh đất và con người Hà Nam nói chung và nhân dân Thanh Liêm nói riêng.